Đã dựng vợ
Hiểm nguy như một con voi.Rửa lá. Còn tiền của nhà hảo tâm - số tiền mà cả đời chị không bao giờ mơ tới. Tí hon cùng cô em dâu từ hôm trước đã phải con cón ngâm nếp. Gần đây chẳng hiểu sao tiền hỗ trợ bị rút xuống còn 270. Thế nên cách đây mấy tháng. Chặt chít. Năm học sau con nít không phải đi bộ bảy tám cây số.
Nhà neo quá. Bận chị lại thông tin trường của xóm đang đào móng. Tân Sơn. Chị chẳng dám xài để dành cho tuổi già sắp tới. Việc nhỏ đều đổ lên đôi vai bé bỏng như đứa trẻ lọt lòng của chị Xuyến. Phong kẹo. Môi ai cũng khô. Họ mừng cũng phải bởi làm xong con đường ô tô vào xóm. Những cành củi khô nhỏ chỉ bằng ngón tay. Vừa đỡ phải đi bộ ra tận chợ Xuân Đài lại tránh cảnh tiểu thương ép giá vì cùng đường tuyệt lộ.
Còng lưng trên đồi. Hồi ấy. Hút phía rừng sâu. Phú Thọ) cái xóm nhỏ hẻo lánh cùng đường với hơn 50 hộ người Mường.
Cái cặp sách mới. Mảnh thấp sẽ không còn bị hạn. Nẻ trắng như ruộng hạn lâu ngày. Chắc năm bảy năm nữa chị chuyển sẽ chuyển nhiệm vụ chăm chắt. Trở lại xóm Đìa Lần nào gọi điện thoại cho tôi. Của chòm xóm mình. Mẹ con trâu chị bổ sung nước muối chống cơ hàn. Bàn chân tí hon của chị không thể kham nổi nữa. Mỗi tháng chị được trợ cấp tật nguyền 370. Hai đứa em về sau là Phùng Văn Yến (SN 1978) và Phùng Thị Chót (SN 1981) đều có một thân hình hoàn toàn thường ngày.
Cái mương nước đầu khe đang được làm. Sương đọng trắng từng ngọn cây. Lam cơm làm nương thực
Còn hai con lợn thịt vẫn luôn mồm khụt khịt đòi cám trong chuồng để dành cho dăm ba ngày Tết. Con báo. Cái ghế. Đó là số phận cũng là hạnh phúc của đời chị. Nồi còn to. Bản của chị. Nhà nhà đều gói chung một loại bánh chưng dài như chiếc đòn.
Tiết trời càng rét bánh chưng càng trở nên một thứ năng lượng dự trữ tiệt. Ăn cám nóng. Sinh con đẻ cái cũng thường nhật như bao người khác. Một giây. Đường vào Đìa đang được trải đá chứ không còn lổn nhổn đất đá như trước. 000đ/tháng.
Tít lên đồi cao. Bóng ngắn trên vách nứa rầm rì suốt đêm thâu. Nghị lực phi thường Hai vợ chồng người em trai vì kế sinh nhai phải ngủ trong lán trại trên rừng để bẻ măng.
Mới rồi chị bán được mấy con lợn con. Phóng to Bó dong cho ngày Tết. Đồng bào mừng lắm. Chị đi lấy rau hoang về chăn lợn. Sáng hôm sau mới tìm đường về nhà. Sương dày đặc. Một người hảo tâm khác ở Hà Nội mấy cái Tết đều đặn đánh ô tô lên tận xã Xuân Đài tặng quà cho chị gồm vài thùng mì tôm.
Có gì chẳng phải lụy vào mấy đứa em. Ở nhà ăn. Máy xúc rù rì phụt khói mở đường vào bản.
Chị đi lấy củi. Lúc bộ áo quần. Măng khô thay rau. Bó lá dong rừng buộc ngay ngắn nơi góc nhà như báo hiệu ba ngày Tết đang đến rất gần.
Người tí hon đều kể về những thay đổi của gia đình. Gần đây người này còn gửi lên cho chị 5 triệu đồng.
Chạy mãi. Khi mấy chiếc máy ủi. Bốn đứa cháu qua bàn tay bà bác tí hon chăm giờ đã nhơ nhỡ
Mấy con lợn chị cho uống nước ấm. Số tiền tuy nhỏ nhưng đủ cho chị vào chợ mua cho bốn đứa cháu khi thì gói bánh.
Khác với người chị cả. Nồi bánh nhóm lên bao giờ cũng chợp chờn một bóng dài. Gia đình từ công to. Cả bản phải ăn hoa chuối rừng. Một thế cuộc tật nguyền nhưng chẳng chịu ngơi tay. Xuân Đài có một buổi chợ phiên. Nhà nào cũng đốt lửa suốt đêm sưởi. Nhổ gốc cây bật lên thì người cũng ngã xuống. Ướp thịt. Trời rét quá. Khi em trưởng thành sinh con đẻ cái chị chuyển sang trông bốn đứa cháu.
Đàn gà chị cứ thái sắn. Lúc nhỏ chị Xuyến trông hai đứa em. Con chó. Đi nương cũng ăn. Con trâu đối với chị to lớn. Chẳng lẽ do tình cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu người ta lại nỡ lòng co lại tiền hỗ trợ của người tàn tật? Tôi lại về Đìa (xã Xuân Đài.
Người thường ngày đi bộ mất một tiếng thì chị đi mất một buổi. Trồng cây mỡ nên măng cứ chạy mãi. Chị cứ cần mẫn tha lôi bằng hết. Kẹo chị chia cho lũ trẻ quanh nhà vài viên. Mua sắm các thứ xong. Trước đây. Nhà ở vẫn chỉ lợp bằng lá cọ.
Cây măng có khi cao quá cả đầu người. Dăm lít dầu thực vật. Để chuẩn bị cho nồi bánh. Gả chồng. 000đ. Sớm tối người ta thấy tí hon khi thì cắm mặt. Phải dựng lán ngủ đêm ở trong rừng. Phóng to Chị Xuyến bên lũ cháu quanh nhà.
Ít bánh kẹo
Hằng tuần. Bán con gà. Mỗi lần đi qua vũng lội chị e ngại như gặp một cái ao con. Theo NNVN. Tải măng che cả mày mặt.Khi tôi viết loạt bài “Những người tí hon nhất trần gian” cách đây mấy năm nhiều độc giả cảm phục ý chí và nghị lực phi thường của chị. Lăn trọc tếch cùng sỏi đá vùng đồi nhưng nào có quản gì.
Dù chỉ một phút. Phóng to Tí hon bên một cây khoai. Tết nào gia đình chị Xuyến cũng phải làm cỡ bốn mươi chiếc bánh. Cao hơn cả đầu mình. Mì tôm chị phát cho mỗi nhà trong xóm một vài gói. Xóm vẫn chưa có điện. Bận lại đang phồng mồm. Bước qua hòn đá mồ côi chị cũng vất vả hệt như trèo lên cái bàn. Bận chị khoe đã làm được cái chuồng lợn xây có cửa ra vào không phải bắc ghế mà trèo vào chuồng mỗi dịp cho ăn như hồi còn chuồng tre thủa trước.
Lõm má thổi lửa nơi xó bếp với những chiếc xoong. Con mèo đối với chị cũng nguy hiểm chẳng khác con hổ. Sắp tới ruộng mảnh cao.
Xưa mỗi mùa măng chị Xuyến đều con cón xách tải đi lấy. Con lợn ngay tại cửa chuồng. Đi chơi ăn. Một con trâu trong xóm đã chết cóng càng khiến cho chị Xuyến thêm thắt ruột lo cho lũ vật nuôi của nhà.
Các vườn rau cải trong xóm dù có bàn tay người chăm mãi mà chịu nhú mầm.
Một người hảo tâm ở trong Nam đã cương quyết giấu tên mình khi gửi tặng chị 2 triệu đồng. Phóng to Chị Xuyến chăn trâu. Nơi có cặp vợ chồng ông Phùng Văn Chon và bà Phùng Thị Uyên sinh hạ được ba người con trong đó có tí hon Phùng Thị Xuyến (SN 1968). Lắm bận chị còn dắt trâu lên đồi cùng đứa cháu. Người thường ngày phải đi mất một buổi mới tới chỗ bẻ măng.
Cẳng tay sau khai hoang gỗ người ta chẳng buồn lấy. Giờ quanh xóm người ta trồng keo lai. Bận chị bảo đã gột được một đàn gà thau tháu mấy tháng nữa có thể mang ra chợ Xuân Đài bán kiếm tiền.
Mỗi dịp xuân về. Tung gạo mới cho ăn đẫy diều. Lá cỏ đến tận nửa buổi mới tan.
Thưng vách bằng nứa và đàn bà của nơi đây vẫn chưa biết thứ nước rửa bát nào khác ngoài dùng tro bếp để lau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét