Thế nhưng, tôi lại thích cách biểu thị nét mặt diễn viên bằng cách để mộc cho một số vai diễn
Đến suất thứ hai, tôi chỉ dùng bút vẽ hai hàng tóc từ mặt trời kéo xuống để che đi khuyết điểm của bộ mặt quá bầu bĩnh của mình, còn lại để gương mặt mộc. Bởi thời bao cấp chưa có nhiều sản phẩm kem lót dưỡng da, chống bị các hóa chất làm tổn hại tế bào da. Suất đầu tiên diễn mỏng, tôi đã bị cô quở bởi tôi làm giống một gương mặt đào hát hơn là đôi.
Điều này giúp các diễn viên có thể tăng hiệu quả nghệ thuật khi miêu tả tính cách hay biểu đạt nội tâm nhân vật. Việc hóa trang khác với trang điểm cho đẹp cũng được nhận định rạch ròi, không lẫn lộn từ đó. Trong suy nghĩ của một chàng trai mới vào nghề, tôi thật sự bị đánh đố để rồi sau đó tìm gặp cậu Mười Út Trà Ôn, kể rõ nỗi niềm, ông cười nói chị Bảy Kim Chưởng không muốn cậu tốn tiền son phấn cho vai này.
Lời khuyên của cô Bảy cho tôi nhiều bài học nhưng quan trọng hơn là ít dùng đến mỹ phẩm thì da mặt không bị hư. Sáng ở đây đồng nghĩa với việc “ăn đèn”, nghĩa là bộ mặt khi bước lên sân khấu có ánh đèn trẻ ranh tạo được sức hút tức thời đối với khán giả, nhất là lúc ánh đèn chiếu rọi vào.
Cô Hai tươi cười gật đầu. Còn bút chì là những viên than chứ làm gì có những cây cọ và phấn đủ màu để vẽ chân mày như ngày nay”. NSND Ngọc Giàu (vai Lục Vân Tiên) và nghệ sĩ Phượng Liên (vai Kiều Nguyệt Nga) Bà bầu Kim Chưởng bỏ lửng không giảng giải từ “mốc” mà bà thường ám chỉ khi nói về diễn xuất. Đến ngày cuối, tôi hỏi sao cô không dạy con cách hóa trang? Cô Hai cười dung dị nói: “Tự con suy nghĩ đi, đào diễn vai kép thì phải hóa trang thế nào?”.
Nhiều thập niên trước, khi nghề hát bắt đầu hình thành từ gánh hát do thầy Năm Tú ở Mỹ Tho sáng lập ra cách ca giả vờ thì hóa trang, làm đẹp cho nghệ sĩ (NS) trên sân khấu đã manh nha hình thành với những nét vẽ khoác trên khuôn mặt NS dự biểu diễn.
Không được diễn dở, chai lì Bà bầu Kim Chưởng, chủ gánh hát mang tên mình, từng cho báo chí biết: “Một diễn viên khi được chúng tôi chọn vào gánh hát là xem bộ mặt có sáng sàn diễn hay không.
Mộc có tức là thật, không sử dụng bất kỳ sự tương trợ nào của son phấn, bút chì, màu cọ. Thời đó còn nghèo, NS xài phấn hiệu “con én” là oách lắm rồi, phần đông phải mua bột trộn với màu để thay cho phấn má hồng. Bà khuyên tôi vốn có khuân mặt khổ hạnh, nhân hậu nên ít trang điểm lại để lộ cái đẹp sẵn có cho vai diễn thêm sáng.
Nhớ nhất lời khuyên của cố NSND Phùng Há khi bà xem tôi diễn vai bà lão trong vở Kiều Nguyệt Nga.
Sự chân thật trong diễn xuất và trong hóa trang đôi lúc sẽ nâng vai diễn lên, đừng quá lạm dụng sẽ làm cho vai diễn bị gượng ép. Bởi trong thế giới màn nhung, những từ lóng của giới chuyên môn hàm ý cách đánh giá, thẩm định của người thân nghề. Từ đó mới tạo nên nét đặc trưng khiến người ta chỉ cần nhắc tới nhân vật nào đó thì mọi người có thể biết nhân vật đó vận y phục gì, mang đạo cụ gì và động tác diễn ra sao.
Và từ đó, cách diễn với khuân mặt mộc trong vở tuồng ấn tượng này, vai diễn đã góp phần mang về cho NSƯT Phương Quang HCV Giải Thanh Tâm năm 1966. Bài học trước hết chính là cách hóa trang cho vai diễn trên sàn diễn. Thế là tôi học cách vẽ đó để vai diễn thật hơn, ấn tượng hơn”.
Từ đó về sau, các đại ban cải lương xem trọng việc làm đẹp với 2 mục đích: Sáng sân khấu và sáng tính cách vai diễn.
Kỳ tới : Chẳng sợ xấu, già. NSND Đinh Bằng Phi nói: “Trong nghề hát, từ quân cho đến cải lương, kịch nói đều phải tuân thủ nghiêm nhặt việc hóa trang cho nhân vật. Ưu điểm này không phải ai cũng có. Chính vốn sống, chính những nghĩ suy chín chắn về cuộc đời đã điểm tô nhan sắc cho họ”.
Những bài học nhớ đời NS Ánh Hoa kể bà vào nghề từ những vai diễn phụ.
Nói như thế không có nghĩa sàn diễn triệt tiêu dần nghệ thuật hóa trang nhưng cái hay của họ chính là biết vận dụng ưu điểm của khuôn mặt và hiểu rõ mệnh nhân vật họ sẽ hóa thân.
Ưu điểm không phải ai cũng có Với những NS không tốn tiền son phấn, họ đã sang nhiều thời kỳ, gần như mặc định thành nguyên tắc, thành quy định mà bản thân họ muốn mỗi nhân vật trong vở tuồng được sống thật.
NSƯT Phương Quang nhắc lại một kỷ niệm không quên trong thế cuộc đi diễn: “Tôi diễn vở Nắng chiều trên sông Dịch cùng NSƯT Ngọc Hương, khi đang ngồi hóa trang lớp diễn phụ của nhân vật ở tuổi về chiều, nhớ lại dĩ vãng hào hùng, bà bầu Kim Chưởng đi ngang thấy tôi lo giặm phấn, tô hồng đôi má, bà nói vai này cần “mộc” chứ không cần “mốc”.
Tôi gật gù cảm thấy cái ngu của mình lớn quá, lời giải thích của đệ nhất danh ca làm tôi sáng ra”. Nghệ thuật hóa trang trong tuồng Việt mang những nét mềm mại dựa trên cơ mặt của các diễn viên. “Mốc” được hiểu theo 2 nghĩa: diễn dở và chai lì nhân vật.
Thời đó phải kể đến NSND Ba Vân, NS Tám Vân, NSƯT Hoàng Giang, NS Ba Xây, Tư Rợm, Hề Minh… khi đã để khuân mặt mộc bước vào thế giới của ánh đèn sân khấu thì dứt khoát các anh không để diễn xuất của mình bị mốc”.
Cách vẽ rằn rện những thớ thịt đã để lộ những mảng trống của phần da mặt. Đến khi diễn vai Đổng Trác, ép phải hóa trang gương mặt tuồng, tôi học từ cách hóa trang của NSND Năm Đồ để thấy bà cũng ít sử dụng son phấn trên toàn gương mặt.
Bà kể: “Thường thì các cô, các dì đi trước vẽ cho tôi một nửa mặt, nửa còn lại tự tôi phải làm.
NSND Ngọc Giàu nhắc lại khi NSƯT Kim Cúc (vợ của NSND Năm Châu) chỉ dẫn bà diễn vai kép: “Ba tháng học vai Lục Vân Tiên, cô Hai Kim Cúc dạy tôi đủ các điệu bộ để diễn cho ra vai kép. Tuy vậy, những NS không dùng son phấn đã có nhiều ưu thế để sống vẹn tròn với đời sống nhân vật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét