Chính những giọng hò Huế man mác thẳm sâu ấy đã ăn sâu vào tâm hồn thơ ngây của ba chị em
Những cơn đau bụng làm bà vật vã đau đớn, ba chị em tôi chỉ còn biết ôm nhau khóc. Công việc của ông Quản Đạo khôn xiết bận rộn, ông Cần không thể chăm chút các con được, ba chị em tự dạy bảo nhau học hành, chăm chút lẫn nhau.
Hết học tiểu học tại Huế, lên trung học ra Hà Nội học tại Trường Thăng Long, rồi trở lại học Trường Khải Định - Huế. Chính từ cái mốc này, tại Paris, thiên tài của Điềm Phùng Thị như tia nắng dữ xuyên qua mù sương, càng ngày càng phát sáng và lan tỏa khắp châu Âu. Nha sĩ Nguyễn Phúc Bửu Điềm (sinh năm 1919, mất năm 1997), con trai của ông Nguyễn Phúc Ưng Hạ, cháu nội của Nguyễn Phúc Hồng Thiết, thuộc phòng 11 –phủ Tuy Lý Vương Miên Trinh.
Theo hồi ký của bà Đậu: "Lăng Khải Định mới xây xong phần then chốt, chưa trang trí, cũng là thời kỳ mẹ tôi sắp sinh em bé, ba tôi đặt tên là Cúc. Tại Paris, bà thành hôn với nha sĩ Bửu Điềm, thuộc dòng dõi tôn thất ở Huế.
Đến năm 1953, bà cùng chồng trình luận án và đỗ tiến sĩ nha khoa. Khi Cúc được hơn hai tuổi, mẹ tôi bị bệnh. Nhân tài điêu khắc thiên bẩm của bà chắc chắn cũng thu nhận ít nhiều khí chất, từ người cha làm Thượng thư bộ Công. Tại sao bà chọn bút danh Điềm Phùng Thị? Điềm là tên chồng, hôn phối năm 1953.
Tuy mẹ mất sớm, bà mới lên ba tuổi, nhưng tính cách dịu dàng, hiền thục của người đàn bà Huế đã ảnh hưởng rất lớn đến vai trò làm vợ của bà Điềm Phùng Thị sau này: Chung thủy, tận tụy, chu đáo coi sóc người chồng mắc bệnh hiểm nghèo một thời kì dài trước khi mất. Từ năm 1941 - 1946 bà theo học nha khoa tại Đại học Hà Nội, tốt nghiệp khóa trước hết dưới chế độ Dân chủ Cộng hòa rồi đi kháng chiến, phục vụ trong ngành Y dược.
Chúng tôi ở xa bên ngoại, nên khi ông ngoại tôi biết mẹ tôi bị bệnh mời ngự y đến khám, chuyển nhà thương thì bệnh đã trở nặng lắm rồi. Cha của bà là ông Phùng Duy Cần vốn là một vị quan bộ Công triều Nguyễn (Bộ Xây dựng) có thừa tận tụy, giàu năng lực chuyên môn, nên được triều đình Huế “chọn mặt gửi vàng” gánh vác việc tổng chỉ huy xây dựng lăng vua Khải Định. Tuổi thơ không bình yên Chân dung bà Điềm Phùng Thị Điềm Phùng Thị tên thật là Phùng Thị Cúc, sinh ngày 18/8/1920 tại làng Châu Ê, xã Thủy Bằng (nay thuộc thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế)
Qua năm 1948, bà bị bệnh trầm trọng, nên được đưa sang Pháp điều trị, rồi học bổ túc nha khoa và tốt nghiệp 1950.
Tuổi thơ của bà Điềm lắm truân chuyên. Mẹ tôi mất, bỏ lại chúng tôi, Cúc 3 tuổi”. Theo lời hướng dẫn của các bậc trưởng thượng ở thôn Vỹ Dạ - Huế, và hồi ký của bà Phùng Thị Đậu, tôi đi dọc theo bờ nam sông Hương (sông Hương đoạn chảy qua địa phận thôn Vỹ Dạ, bắt đầu từ Đập Đá đến Bến Cạn), song dấu vết ngôi nhà xưa của họ Phùng (nay là đường Nguyễn Sinh Cung) không còn nữa! Lớn lên, theo thời cục biến động miên man, việc học hành của bà Điềm cũng không ổn định.
Tuy thế nghề nha sĩ không hấp dẫn bà bằng âm vang mỹ thuật của Paris - “đế kinh” của nghệ thuật thế giới. VŨ HÀO KỲ SAU: Lao động và sáng tạo. Ba chị em rời thôn Châu Ê, theo cậu, dì và ông ngoại đón về nuôi ở thôn Vĩ Dạ, còn bà kế mẫu trẻ được cho trở lại quê nhà. Chị ruột bà – bà Phùng Thị Đậu còn nhớ: “Lên sáu tuổi, Cúc hay xuống xưởng mộc, xưởng ngà voi, sừng trâu, lượm những đồ phế thải ra để làm đồ chơi, xâu thành chuỗi vòng tay, vòng cổ, đủ các hình thù rất ngộ nghĩnh”.
Thiếu vắng tình mẫu tử, ba chị em còn phải chịu cảnh mẹ kế con chồng! Hơn nửa năm sau khi vợ chết, trong một lần đi hiểu dụ ở Nghệ Tĩnh, ông Phùng Duy Cần đón về một cô gái trẻ, bảo với các con là kế mẫu! Cuộc sống từ đấy không bình lặng, khi lăng Khải Định hoàn tất, triều đình bổ nhiệm ông Cần làm Quản đạo (tỉnh trưởng) tỉnh Kon Tum.
Các tượng “Mẹ Con”, “Trẻ con” sau khi triển lãm được chính phủ Pháp mua, dựng trong một công viên trẻ mỏ ở Paris. Cả gia đình ly tán một lần nữa. Học hành đầy biến động Tuy Lý Vương Phủ (Vỹ Dạ - Huế), nơi bà Điềm về làm dâu hoàng phái Do hoàn tất tốt công việc ở Pleiku, ông Phùng Duy Cần lại được điều về Kinh đô - Huế, giữ chức Tham tri bộ Công, ở đây cho đến cuối năm 1944 thì về hưu với chức Công bộ Thượng thư Hiệp tá Đại học sĩ.
Năm 1966, bà mở cuộc triển lãm trước hết tại Nhà Thanh niên Paris, được sự quan hoài và khuyến khích của Raymond Cogniat, nhà phê bình kỳ cựu ở báo Le Figaro.
Sống yên ổn với ngoại ở Vỹ Dạ chưa được lâu, ba chị em lại theo cha lên Kon Tum. Ngôi nhà ông mua nằm bên bờ sông Hương, đêm đêm có thể nghe tiếng hò mái nhì, mái đẩy cách biệt, buồn não nề của những kỹ nữ, những cô gái đưa đò.
Ít tháng sau, ông Cần đến nhiệm sở mới, ổn định chỗ ở. Theo lời tâm sự của bà trong lần tham dự Hội thảo Văn hóa quốc tế năm 1995 tại Đà Nẵng, chặng đường du học tại châu Âu cũng rất gian khổ, trong những năm kinh tế khó khăn sau thế chiến thứ hai.
Bà là con gái út của ông Phùng Duy Cần, người gốc Bùi Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, làm quan triều Nguyễn (Bộ Công) lấy vợ người Huế (nguyên quán Vỹ Dạ, thị thành Huế).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét